Hotline: 0968133153
Tin tức hoạt động được Trung tâm cập nhật liên tục
Góp ý vào dự thảo Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020 trình Đại hội Đảng XI, tác giả Nguyễn Huy Cường có một đề xuất khá thú vị trong việc chọn lựa động lực phát triển. Tiền Phong xin giới thiệu bài viết này.
Đường sắt cao tốc ( ĐSCT) là câu chuyện đệ nhất hệ trọng tầm cỡ quốc gia trong khung thời gian 10 năm tới nếu được thực thi. Có thêm nhiều chiều kích soi rọi vào đại sự này, sẽ làm nổi bật nhiều khía cạnh của chủ đề ĐSCT.
Với một nước còn nghèo, tư duy “lợi-hại” được đặt lên hàng đầu khi tiếp cận các đề án lớn, các nguồn vốn cực lớn xem ra là hợp lý.
Nó thành động lực thúc đẩy nền kinh tế, xã hội phát triển hay tạo nên một không gian loãng? Một phân khúc thời gian đáng kể bị chi phối và những hệ quả không nhỏ về nhiều ý nghĩa?
Nếu nó có ý nghĩa làm chậm lại tốc độ phát triển kinh tế, ý nghĩa hạn chế tăng trưởng là điều cần suy xét!
Xin trao đổi về đề tài này bằng một phương pháp giản đơn, dân dã, phi hàn lâm. Chúng ta tạo ra một cuộc “Đấu thầu” giả tưởng đại loại là “ Để chi 56 tỷ USD hiệu quả cao trong 10 năm” với đáp số là : Mau hoàn vốn- lãi nhiều - ít phát sinh các hệ quả khác!.
Khi bàn về ĐSCT, con số 56 tỷ USD là vốn cơ bản, chưa phát sinh được ghi nhận.
Sau đây là “Chủ thầu” giả tưởng thứ nhất: Dự án chi 70 tỷ USD cho ba khoản: Dầu khí - Đào tạo - Giao thông tầm trung.
1-Gói vốn đầu tư dầu khí
Với vốn liếng công nghệ, nhân lực của ta, hiện đã có thể chủ động tăng cường thăm dò, khai thác dầu khí ở Việt Nam và trên thế giới ( ta đang tham gia khai thác, dự thầu ở Irac, Nam Mỹ …)
Trong nghề dầu khí, cứ bỏ ra 10 tỷ USD mỗi năm sẽ nhận được một giá trị tương đương 8 đến 10 triệu tấn dầu thô. Nếu ta trích ra 25 tỷ USD trong tổng trên, để xoáy vào hướng này, mỗi năm ta có thêm khoảng 20 triệu tấn dầu, trị giá mười tỷ USD .
An ninh năng lượng quốc gia được bảo đảm, nguồn này còn “chấp” luôn các dự báo tăng trưởng thật lớn trong tương lai. Khi nắm được “vũ khí dầu mỏ” rồi ta còn làm được nhiều việc khác, kể cả làm phương tiện điều chỉnh các quan hệ đối ngoại. Thời gian hoàn vốn cho loại đầu tư này là từ 2 đến 3 năm, ngắn hơn ĐSCT nhiều lần. Về mặt chi – thu, ta thu lại 25 tỷ USD sau 3 năm, nhanh hơn thời điểm mới hoàn thành ĐSCT 7 năm.
2- Gói vốn đầu tư giáo dục - đào tạo
Ngành giáo dục Việt Nam đang trải qua bước thăng trầm nặng nề mà ba nét lớn đã thể hiện:
1- Chương trình chưa hợp lý, quá ôm đồm, dài dòng và ít hiệu quả nên chất lượng các sản phẩm giáo dục hiện còn nhiều vấn đề.
2- Vốn ngân sách chưa đủ để tạo sự phát triển đồng bộ cho toàn ngành, nhất là khu vực vùng sâu vùng xa, vùng phát triển yếu.
3- Khuynh hướng đào tạo hiện nay, chưa bám sát trọng tâm và luôn hụt hơi trước nhu cầu phát triển, đang tạo nên một xã hội trực chỉ đại học. Ngành dạy nghề chỉ xem như một “khu đệm” dành cho những người hụt đại học, học nghề là bất đắc dĩ nên cái thiếu nhất, là thiếu nhân lực nghề chất lượng cao. TPHCM là vùng dân trí cao mà đã hiển hiện sự thiếu hụt trầm trọng diện này.
Nay trích ra 5 tỷ USD cho việc này
- Xây cho 50 tỉnh ( ngoài 12 tỉnh, thành đang phát triển như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nằng, TP HCM…) , trong bài này tôi tạm gọi là “vùng 2”, mỗi tỉnh ba trường dạy nghề ,vị chi là 150 ngôi trường.
Tại đây, sẽ có những khóa đào tạo kỹ trong hai năm theo hướng tinh giản, chuyên sâu và hiệu quả , khác hẳn lối đào tạo hiện nay.
Các nhà trường này sẽ là một mô hình rất mới: Vừa đào tạo, vừa rèn kỹ năng nghề nghiệp cho học viên, vừa là đơn vị sản xuất một số ngành hàng bám sát nhu cầu xã hội, tương tự như hệ thống bệnh viện của Trường Đại học Y dược TPHCM, vừa là cơ sở kinh doanh theo kiểu “mỡ nó chiên nó”, góp phần tự chủ, cân đối tài chính vừa theo sát hướng đào tạo chuyên sâu để học viên ra trường có tay nghề thật vững vàng, thậm chỉ giỏi, thuần thục sẵn sàng làm chủ tương lai và “có giá” cao trên thị trường lao động, kể cả khi xuất khẩu lao động.
Mỗi khóa hai năm học cho chừng 3.000 học sinh. Như vậy, mười năm sau, hệ thống trường này sẽ cấp cho xã hội khoảng ba triệu thợ lành nghề, ba triệu công dân tốt, loại cốt lõi của giai cấp công nhân thật sự , đáp ứng một nhu cầu chắc chắn sẽ xảy ra vào tương lai gần đây.
Thực hiện được mục tiêu này, không còn là chuyện xóa đói giảm nghèo nữa mà nó góp phần: làm giàu- phát triển mạnh. Tiền lương của họ (cũng là của xã hội) khi ấy là những “mỏ dầu” mới có khung thời gian khai thác bằng một đời người.
Họ sẽ là một nguyên khí thật sự của nước Việt Nam vững mạnh, đương dầu với mọi thách thức kể cả việc chủ động ngăn chặn việc “nhập khẩu lao động” vào Việt Nam khi cấp độ tăng trưởng cao hơn.
150 ngôi trường ấy, mỗi ngôi chỉ đầu tư hết 120- 150 tỷ đồng là ổn. Toàn hệ thống mới hết khoảng 20.000 tỷ VND, tương đương với 1 tỷ USD. Số 4 tỷ USD còn lại, chia làm hai phần. Khoảng 3 tỷ USD dành cho một mục tiêu xây dựng trường sở, áp dụng nội dung giáo dục tốt cho phần lớn học sinh phổ thông ở 50 tỉnh thành “vùng 2 ” hiện nay để thế hệ trẻ các vùng này có trình độ văn hóa sau 18 tuổi tốt hơn bây giờ nhiều lần. Số 1 tỷ USD còn lại tăng cường cho tuyến đại học tiên tiến để sau 10 năm, đất nước đón nhận độ nửa triệu cử nhân chất lượng cao.
Như vậy, với 5 tỷ USD, hầu như ta đã cấu trúc lại toàn bộ ngành Giáo dục - Đào tạo và giải bài toán nhân lực quốc gia trong tầm nhìn dài rộng, vững chắc. Cùng lúc giải hàng loạt bài toán xã hội, kinh tế và an ninh.
Đôi lời về chuyện thu-chi
Mỗi học sinh sau phổ thông hiện nay, trải qua bốn năm rưỡi đại học với nguồn chi là khoảng 120 triệu VND.
Mỗi học sinh sau 24 tháng học tập, rèn luyện tại đây sẽ để lại nhà trường 24 triệu và tiêu pha hết chừng 30 triệu nữa, vị chi là chưa hết nửa số tiền học đại học.
Nhưng với lớp này, họ đi làm sớm hơn diện theo đại học, cao đẳng hai năm trời sau khi đã được đào tạo rất kỹ. Nếu cân bằng mức lương sẽ thu được trong hai năm này với nguồn chi nói trên tương đương với ngưỡng 4 năm rưỡi của “phe” theo đại học thì tiền học phí diện học nghề sẽ bằng 0, thậm chí đã có “lãi” nhiều nếu mức lương đạt 3-4 triệu / tháng trở lên. (ngay bây giờ nhiều công ty ở Bình Dương đã có mức lương cho công nhân đạt từ 3 - 5 triệu)
Thế là, gần như một loại đũa thần, dự án thì tính bằng hàng chục ngàn tỷ nhưng kết cục, không ai mất gì, số vốn thì nhà nước ( kể cả vay của nước ngoài) thu hồi nhanh chóng, số học phí các gia đình bỏ ra thì thu lại sau một- hai năm!
Đó là cái giá mà giới phụ huynh, mà xã hội dễ chấp nhận.
Từ cơ sở đó, nhân nhanh 3 triệu học sinh học nghề với 24 triệu bạc, sẽ thấy nguồn vốn đầu tư vào không lớn và thời gian hoàn trả vốn chỉ là 1/3 thời gian của 10 năm (thời gian tạm quy ước của ĐSCT). Sau thời điểm này bảy năm sau thu tiếp 2 tỷ USD và còn “lãi” nguyên một khối khổng lồ là 150 ngôi trường này dùng cho tương lai . Bài toán chi-thu 5 tỷ USD này được giải quyết êm thấm.
Cái lãi “phát sinh” khác rất lớn là: Nếu bộ máy đào tạo nghề này vận hành trơn tru, nhiều lớp thanh niên vào đời bằng ngả này suôn sẻ, trưởng thành vững chắc, giàu có sẽ tạo hấp lực hút bớt lượng thanh niên mới vào đời hàng năm, giảm “áp lực đại học” cũng chính là giảm những phức tạp, bấn bách, nhiễu loạn của môi trường giáo dục những năm gần đây.
Lợi đơn, lợi kép.
(Còn nữa)
Nguyễn Huy Cường